Suy giáp là gì? Các công bố khoa học về Suy giáp

Suy giáp là một thuật ngữ trong truyền thống y học Đông y. Nó được trình bày là sự lạm dụng sử dụng thuốc, đặc biệt là các loại thuốc có tính chất nặng như thuố...

Suy giáp là một thuật ngữ trong truyền thống y học Đông y. Nó được trình bày là sự lạm dụng sử dụng thuốc, đặc biệt là các loại thuốc có tính chất nặng như thuốc cấm, thuốc lá và rượu bia, gây tổn thương cho cơ thể và các cơ quan nội tạng. Suy giáp có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực cho sức khỏe như suy nhược, suy tim, tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, viêm gan, tiểu đường và ung thư.
Suy giáp là một thuật ngữ trong y học Đông y có nghĩa là một trạng thái sức khỏe yếu đuối xuất phát từ lạm dụng sử dụng thuốc, đặc biệt là các loại thuốc có tính chất nặng như thuốc cấm, thuốc lá, rượu bia hoặc sử dụng trong lâu dài. Suy giáp cũng có thể được gây ra bởi thói quen không lành mạnh như ăn uống không cân đối, thiếu chất dinh dưỡng và không có chế độ sinh hoạt hợp lý.

Khi một người suy giáp, cơ thể trở nên suy nhược và yếu đuối. Người bị suy giáp thường có triệu chứng mệt mỏi, mất ngủ, suy giảm trí nhớ và năng lượng suy yếu. Họ cũng có khả năng suy tim, tăng huyết áp và lão hóa sớm. Ngoài ra, suy giáp cũng có thể gây hàng loạt vấn đề sức khỏe như viêm gan, xơ vữa động mạch, tiểu đường và thậm chí ung thư.

Để ngăn chặn và điều trị suy giáp, quan trọng nhất là điều chỉnh lối sống lành mạnh, bao gồm ăn uống cân đối, tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc và hạn chế tiếp xúc với các chất gây hại như thuốc lá, rượu và thuốc cấm. Nếu bạn có triệu chứng của suy giáp, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị đúng cách.
Suy giáp là một trạng thái sức khỏe yếu đuối và suy nhược do lạm dụng sử dụng thuốc. Thuốc làm suy giáp thường là những loại thuốc có tính chất nặng như thuốc cấm, thuốc lá, rượu, ma túy, và các chất kích thích. Lạm dụng thuốc trong thời gian dài sẽ gây tổn thương cho cơ thể và các cơ quan nội tạng, dẫn đến suy giáp.

Suy giáp có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Các triệu chứng của suy giáp bao gồm: mệt mỏi, suy nhược cơ thể, giảm năng lượng, đau đầu, chóng mặt, thiếu máu, tim đập nhanh, khó thở, giảm trí nhớ, giảm khả năng tập trung, suy giảm chức năng tình dục, giảm miễn dịch và khả năng chống bệnh tật.

Ngoài ra, suy giáp cũng có thể gây ra những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác như bệnh tim mạch, huyết áp cao, suy thận, viêm gan, xơ vữa động mạch, tiểu đường, hội chứng rối loạn tiền đình, và thậm chí ung thư.

Để tránh suy giáp, hạn chế hoặc tránh sử dụng các loại thuốc có tính chất gây hại. Nếu bạn đã sử dụng thuốc trong quá khứ và đang có những triệu chứng suy giáp, hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ để được tư vấn và điều trị phù hợp. Bác sĩ có thể đưa ra các biện pháp điều trị như tạo chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh, uống thuốc giúp phục hồi sức khỏe, tham gia vào các chương trình hỗ trợ hoặc tư vấn để giảm suy giáp và phục hồi sức khỏe.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "suy giáp":

Nghiên cứu ảnh hưởng của suy giáp thai kỳ đến mẹ và thai nhi tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 2 - Trang 120-122 - 2014
Đặt vấn đề: Bệnh suy tuyến giáp trạng là bệnh nội tiết phổ biến ở phụ nữ mang thai đứng thứ 2 sau bệnh đái tháo đường. Những rối loạn chức năng tuyến giáp ở thời điểm mang thai không chỉ ảnh hưởng đến mẹ mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi và của đứa trẻ sau này. Mục tiêu: Nghiên cứu ảnh hưởng của suy giáp trong thời kì mang thai đến mẹ và thai nhi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 2100 thai phụ được sàng lọc suy giáp bằng các xét nghiệm TSH, FT4, Ab-TPO. Theo dõi ảnh hưởng của suy giáp ở nhóm bệnh nhân suy giáp và không bị suy giáp trong quá trình mang thai và sau đẻ. Kết quả: Thai phụ suy giáp chiếm tỷ lệ 2,8%. Thai phụ suy giáp làm tăng nguy cơ rau bong non, tăng huyết áp, tiền sản giật, sảy thai, sinh non. Chưa thấy tăng nguy cơ cân nặng thấp, thai chết lưu và dị tật bẩm sinh. Kết luận: Thai phụ suy giáp làm tăng nguy cơ rau bong non, tăng huyết áp, tiền sản giật, sảy thai, sinh non.
#suy giáp #mang thai suy giáp
Nhận xét tình trạng rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu của thai kỳ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 2 - Trang 51 – 57 - 2017
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu thai kỳ và tìm hiểm các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 156 thai phụ mang thai 3 tháng đầu tại khoa Nội tiết – ĐTĐ- Bệnh viện Bạch Mai và phòng khám Theo yêu cầu - Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, từ tháng 11 năm 2014 đến tháng 7 năm 2015. Các tiêu chuẩn đánh giá theo khuyến cáo của Hội Tuyến Giáp Hoa kỳ năm 2011. Kết quả: Tỷ lệ RLCNTG nói chung: 38,5%. Trong đó, cường giáp 16,7%, suy giáp 10,9%, tình trạng giảm hormon FT4 10,9%. Suy giáp trong thời kỳ mang thai liên quan với: tiền sử mắc bệnh tuyến giáp và anti-TPO dương tính. Thai phụ có tiền sử mắc bệnh tuyến giáp có nguy cơ bị suy giáp gấp 20,36 lần so với thai phụ không có tiền sử bệnh lý tuyến giáp. Thai phụ có anti-TPO (+) có nguy cơ bị suy giáp gấp 4,22 lần thai phụ có anti-TPO (-). Chưa tìm thấy mối liên quan giữa cường giáp, tình trạng giảm hormon FT4 với các yếu tố liên quan. Kết luận: Rối loạn chức năng tuyến giáp ở phụ nữ trong 3 tháng đầu thai kỳ là khá phổ biến. Suy giáp trong thai kỳ có liên quan đến tiền sử mắc bệnh tuyến giáp và tình trạng Anti- TPO dương tính.  
#Rối loạn chức năng tuyến giáp #mang thai 3 tháng đầu #suy giáp #cường giáp.
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỶ LỆ DƯƠNG TÍNH GIẢ CỦA SÀNG LỌC SUY GIÁP TRẠNG BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Phân tích một số yếu tố liên quan đến tỷ lệ dương tính giả của sàng lọc suy giáp bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 159 trẻ em qua sàng lọc sơ sinh máu gót chân có kết quả nồng độ TSH ≥ 10 mUI/L. Kết quả: Tỷ lệ dương tính giả là 21,4%. Giá trị dự đoán dương tính ở mức TSH ≥ 10 mUI/L, ≥ 18 mUI/L, ≥ 20 mUI/L, ≥ 30 mUI/L, ≥ 40 mUI/L là 78,6%, 80,8%, 81,7%, 84,9%, 86%. Các yếu tố liên quan tỉ lệ dương tính giả như: Tuổi thai <37 tuần có tỷ lệ dương tính giả cao gấp 5,41 lần so với nhóm ≥ 37 tuần (OR=5,41; 95%CI: 1,23 – 24,76). Thời gian lấy mẫu sau sinh < 48h có tỷ lệ dương tính giả cao gấp 2,01 lần so với nhóm ≥ 48 giờ (OR=2,01; 95%CI: 1,27 – 3,11). Kết luận: Tỷ lệ dương tính giả trong nghiên cứu với mức TSH ≥ 10 mUI/L là có thể chấp nhận được với chương trình sàng lọc sơ sinh. Việc lấy mẫu sàng lọc sơ sinh sau 48 tiếng có thể hạn chế tỷ lệ dương tính giả.
#Sàng lọc sơ sinh #Suy giáp bẩm sinh #Yếu tố liên quan
Suy giáp do viêm tuyến giáp Hashimoto ở trẻ em
Viêm tuyến giáp Hashimoto (Hashimoto’s Thyroiditis - HT) là bệnh lý tự miễn phổ biến gây suy giáp mắc phải ở trẻ em và thanh thiếu niên. Nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ ảnh hưởng đến phát triển thể chất, tâm thần và vận động của trẻ. Nghiên cứu này mô tả đặc điểm lâm sàng, xét nghiệm và điều trị của bệnh nhân suy giáp do HT. Nghiên cứu một loạt ca bệnh bao gồm 19 bệnh nhân được chẩn đoán suy giáp do HT được khám và điều trị tại khoa Nội tiết – Chuyển hóa – Di truyền, Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 04/2018 đến tháng 12/2020. Đối tượng nghiên cứu gồm 17 bệnh nhi nữ và 2 bệnh nhi nam được chẩn đoán suy giáp do HT với độ tuổi trung bình là 7,69 ± 2,65 tuổi. Lý do khám bệnh và biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất là bướu cổ. Tất cả các trẻ trong nhóm nghiên cứu có suy chức năng tuyến giáp được chẩn đoán qua xét nghiệm hormon giáp với trị số trung bình T3: 1,72 ± 0,56 nmol/l; FT4: 9,81 ± 5,41 pmol/l; TSH: 84,09 ± 80,81 mIU/l, và kháng thể kháng giáp Anti-Tg: 2462,81 ± 1787,36 U/ml; Anti-TPO: 311,53 ± 237,16 U/ml. Điều trị bằng hormon thay thế: Levothyroxin 3,12 ± 0,99 mcg/kg/ngày.
#Viêm tuyến giáp Hashimoto trẻ em #suy giáp #viêm tuyến giáp tự miễn.
ĐÁNH GIÁ SỰ TUÂN THỦ SỬ DỤNG THUỐC LEVOTHYROXINE Ở BỆNH NHÂN SUY GIÁP TIÊN PHÁT CAO TUỔI TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tuân thủ sử dụng thuốc Levothyroxine (L-T4) và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân suy giáp tiên phát (SGTP) cao tuổi tại phòng khám Nội tiết, bệnh viện Hữu Nghị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 82 bệnh nhân suy giáp tiên phát, tuổi từ 60 đến 87, tham gia khám bệnh tại phòng khám Nội tiết, bệnh viện Hữu Nghị từ 8/2020 đến 8/2021. Các xét nghiệm được tiến hành gồm TSH, FT4. Kết quả và bàn luận: Có 85,4% bệnh nhân tuân thủ điều trị thuốc (TTĐTT). Mức độ TTĐTT: cao 69,5%; trung bình 15,9%; thấp 14,6%. Có 78,1% đạt mục tiêu điều trị (bình giáp), 21,9% chưa đạt mục tiêu điều trị. Các yếu tố liên quan đến tỉ lệ tuân thủ điều trị L-T4 là trình độ học vấn (OR = 11,8; 95% CI: 2,6-54,3) và mục tiêu điều trị (OR= 4,8, 95% CI:1,3-17,6). Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ sử dụng thuốc L-T4 trên bệnh nhân suy giáp tiên phát cao tuổi chiếm khoảng 85,4%. Các yếu tố liên quan đến tuân thủ sử dụng thuốc L-T4: Trình độ học vấn và mục tiêu điều trị. Kiến nghị: hướng dẫn bệnh nhân tham khảo các tài liệu, sách báo, tạp trí, internet cùng sự hướng dẫn của nhân viên y tế về bệnh suy giáp.
#Tuân thủ điều trị thuốc #suy giáp tiên phát #Levothyroxine
KẾT QUẢ SÀNG LỌC SUY GIÁP BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sàng lọc suy giáp bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung Ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên 159 trẻ em có kết quả lấy máu gót chân của chương trình sàng lọc sau sinh suy giáp trạng bẩm sinh có nồng độ TSH ≥ 10 mUI/L. Kết quả: Tỷ lệ dương tính thật qua lần sàng lọc thứ hai với mẫu máu tĩnh mạch là 78,6%.Tỷ lệ suy giáp vĩnh viễn là 38,2% và tỷ lệ suy giáp thoáng qua là 60,8%, có sự khác biệt về chỉ số TSH lấy lần đầu tiên, TSH tĩnh mạch và FT4 tĩnh mạch giữa hai loại suy giáp vĩnh viễn và suy giáp thoáng qua (p<0,001). Kết luận: Tỷ lệ suy giáp bẩm sinh trên đối tượng được sàng lọc trong nghiên cứu của chúng tôi là tương đối cao, bên cạnh đó tỷ lệ suy giáp vĩnh viễn cần được điều trị kịp thời để giảm thiểu gánh nặng bệnh tật cho bệnh nhi.
#Sàng lọc sơ sinh #Suy giáp bẩm sinh
Scintigraphy tuyến giáp và xét nghiệm perchlorate sau khi tiêm TSH tái tổ hợp: một công cụ mới trong chẩn đoán phân biệt suy giáp bẩm sinh ở trẻ sơ sinh Dịch bởi AI
European Journal of Nuclear Medicine - Tập 34 - Trang 1498-1503 - 2007
Khởi đầu kịp thời liệu pháp l-thyroxine ở trẻ sơ sinh mắc suy giáp bẩm sinh (CH) thường cản trở việc thực hiện các nghiên cứu chức năng. Chẩn đoán nguyên nhân do đó bị trì hoãn cho đến sau giai đoạn sơ sinh, khi mà các xét nghiệm cần thiết được thực hiện sau khi ngừng l-thyroxine. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác minh tính hiệu quả và độ an toàn của các giao thức mới cho xét nghiệm rhTSH (Thyrogen) trong quá trình thay thế l-thyroxine trong chẩn đoán phân biệt suy giáp bẩm sinh. Mười bệnh nhân suy giáp bẩm sinh (15-144 tháng tuổi) đã được nghiên cứu. Bảy bệnh nhân có bằng chứng về tuyến giáp bình thường tại thời điểm siêu âm trong khi nhập viện và nhận hai lần tiêm rhTSH (4 μg/kg mỗi ngày, tiêm bắp) kèm theo chụp hình 123I và xét nghiệm perchlorate vào ngày thứ 3. Ba bệnh nhân có chẩn đoán siêu âm về dị dạng tuyến giáp đã nhận ba lần tiêm rhTSH với chụp hình 123I vào các ngày 3 và 4. Việc xác định TSH và thyroglobulin (Tg) được thực hiện vào các ngày 1, 3 và 4, và siêu âm vùng cổ vào ngày 1. Kích thích rhTSH đã làm tăng mức Tg ở tám bệnh nhân. Phản ứng Tg bị suy giảm được ghi nhận ở hai bệnh nhân có dị sản và thiểu sản. Đáng chú ý, hai trường hợp đã cho thấy sự kết hợp của các khuyết tật phát triển khác nhau. Xét nghiệm perchlorate đã phát hiện một khiếm khuyết tổng thể trong việc tổ chức iodide ở hai bệnh nhân, bao gồm một bệnh nhân có chẩn đoán sơ sinh về hội chứng Pendred, người sau đó đã được xác định có đột biến TPO. rhTSH không gây ra tác dụng phụ đáng kể. Các giao thức rhTSH mới luôn dẫn đến việc phân loại bệnh chính xác, cho phép quản lý cụ thể và phân tích gen mục tiêu. Do đó, rhTSH đại diện cho một lựa chọn hợp lệ và an toàn thay thế cho việc ngừng l-thyroxine trong chẩn đoán phân biệt suy giáp bẩm sinh ở bệnh nhân nhi.
#suy giáp bẩm sinh #rhTSH #chẩn đoán phân biệt #thyroglobulin #iodide
SUY GIÁP THAI KỲ Ở PHỤ NỮ MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU TẠI TRUNG TÂM XÉT NGHIỆM Y KHOA YESLAB
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 71 - Trang 15-20 - 2024
Đặt vấn đề: Mang thai kết hợp với suy giáp và các rối loạn nội tiết gây hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Tại Việt Nam, tỉ lệ suy giáp trong 3 tháng đầu thai kỳ dao động từ 10,9% đến 16,3%. Suy giáp sớm gây tổn thương não bộ thai nhi và ảnh hưởng phát triển trí tuệ của trẻ. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ suy giáp ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Trung Tâm Xét Nghiệm Y Khoa Yeslab và các yếu tố liên quan. So sánh tỉ lệ suy giáp giữa khoảng tham chiếu của TOSOH và ATA 2017. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu hồ sơ 119 PNMT 3 tháng đầu khám tại TTXNYK Yeslab từ 9/2022-5/2023 có xét nghiệm TSH. Tỉ lệ suy giáp thai kỳ dựa vào giá trị trung vị TSH ở 2 khoảng tham chiếu: (1) Hãng TOSOH (người châu Á) và (2) ATA 2017 (dành riêng PNMT 3 tháng đầu). Kết quả: Tỉ lệ suy giáp thai kỳ ở PNMT 3 tháng đầu theo TOSOH và ATA 2017 tại TTXNYK Yeslab là 4,2% và 5,9%. So sánh tỉ lệ suy giáp thai kỳ giữa TOSOH và ATA 2017 nhận thấy nhóm PNMT từ 30 tuổi trở lên, tỉ lệ suy giáp theo TOSOH và ATA 2017 là 2,5%, 0,8% và không có sự khác biệt (p>0,05). Với PNMT dưới 8 tuần tuổi, tỉ lệ suy giáp theo ATA 2017 cao hơn TOSOH (5,0% và 3,4%), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Nồng độ TSH (chỉ số đánh giá tỉ lệ suy giáp thai kỳ) có liên quan với tuổi thai, tuy nhiên không liên quan với tuổi thai phụ. Kết luận: Sử dụng khoảng tham chiếu của ATA 2017 để sàng lọc suy giáp ở PNMT. Nên sàng lọc định kỳ từ sớm để phát hiện bất thường về tuyến giáp và điều trị kịp thời.
#Suy giáp thai kỳ #mang thai 3 tháng đầu #Trung Tâm Xét Nghiệm Y Khoa Yeslab
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA TRẺ SUY GIÁP BẨM SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của trẻ suy giáp bẩm sinh tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ 01/2015 – 01/2020; Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi chọn được 52 bệnh nhi được chẩn đoán suy giáp bẩm sinh và điều trị nội trú tại Bệnh viện Nhi Trung ương từ 01/2015 – 01/2020; Phương pháp: Mô tả hồi cứu; Kết quả: Qua nghiên cứu 52 bệnh nhi chúng tôi thu được kết quả như sau: phần lớn trẻ SGBS có thể phát hiện được sớm trước 3 tuổi, thậm chí trong độ tuổi sơ sinh. Dấu hiệu nghi ngờ là táo bón đi kèm với phù nhiêm, vàng da kéo dài, chậm phát triển tâm vận động, TSH>100 µU/ml, FT3 từ 1-2pg/ml, FT4<0,4ng/dl, thiếu máu và chậm trưởng thành xương trên X quang; Kết luận: Phần lớn trẻ SGBS có thể phát hiện được sớm trước 3 tuổi; Dấu hiệu nghi ngờ là táo bón đi kèm với phù nhiêm, vàng da kéo dài, chậm phát triển tâm vận động, TSH>100 µU/ml, FT3 từ 1-2pg/ml, FT4<0,4ng/dl, thiếu máu và chậm trưởng thành xương trên X quang.
#Suy giáp bẩm sinh #trẻ em.
Các yếu tố nguy cơ cần điều trị thay thế hormone tuyến giáp sau khi cắt bỏ nửa tuyến giáp và phát triển một mô hình dự đoán. Dịch bởi AI
Endocrine - Tập 76 - Trang 85-94 - 2022
Phẫu thuật cắt nửa tuyến giáp là một phương pháp hợp lý nhằm giữ lại thùy tuyến giáp đối diện đang còn chức năng, được chỉ định cho nhiều bệnh lý về tuyến giáp khác nhau. Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố nguy cơ cần điều trị thay thế hormone tuyến giáp sau khi cắt nửa tuyến giáp và phát triển một mô hình dự đoán. Dữ liệu của các bệnh nhân điều trị cắt nửa tuyến giáp do bệnh lý tuyến giáp lành tính từ tháng 1 năm 2015 đến tháng 1 năm 2020 đã được phân tích hồi cứu. Các đặc điểm cơ bản, các biến liên quan đến phẫu thuật, và chức năng tuyến giáp trước và sau phẫu thuật của bệnh nhân được thu thập từ hồ sơ bệnh án và so sánh giữa các bệnh nhân có trạng thái nội tiết bình thường sau phẫu thuật và các bệnh nhân bị suy giáp sau phẫu thuật. Bệnh nhân có trạng thái nội tiết bình thường sau phẫu thuật không cần điều trị hormone tuyến giáp được so sánh với những người phát triển suy giáp sau phẫu thuật cần điều trị hormone tuyến giáp. Các yếu tố liên quan đến việc điều trị thay thế hormone tuyến giáp đã được sử dụng để xây dựng một mô hình hồi quy logistic nhị phân và được trình bày dưới dạng mô hình dự đoán nhằm đánh giá nguy cơ điều trị thay thế hormone tuyến giáp sau cắt nửa tuyến giáp. Trong số 378 bệnh nhân (74% nữ) được đưa vào nghiên cứu, 110 (29,1%) phát triển suy giáp sau phẫu thuật. Nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH) huyết thanh trước phẫu thuật > 2.172 μIU/mL được xác định là yếu tố nguy cơ độc lập đối với suy giáp sau phẫu thuật (tỷ lệ cược [OR] = 8.02; khoảng tin cậy 95% [CI]: 4.87–13.20; P < 0.001). Trong số 110 bệnh nhân có suy giáp sau phẫu thuật, 56 (50.9%) đã nhận điều trị thay thế hormone tuyến giáp. Khối u tuyến giáp đơn phương và nồng độ TSH huyết thanh trước phẫu thuật > 2.172 μIU/mL là những yếu tố dự đoán độc lập cho việc điều trị thay thế hormone tuyến giáp sau phẫu thuật (P = 0.01, và P < 0.001, tương ứng). Suy giáp tạm thời không có triệu chứng xảy ra ở 12 bệnh nhân; tất cả 12 bệnh nhân này đã trở lại trạng thái nội tiết bình thường mà không cần điều trị hormone tuyến giáp. Hiệu ứng phân biệt của mô hình hồi quy nhị phân đã được chứng minh là đáng tin cậy qua bài kiểm tra độ phù hợp của Hosmer–Lemeshow (P = 0.503), và khả năng dự đoán của mô hình được đánh giá là thỏa đáng với chỉ số C là 0.833. Suy giáp là phổ biến sau khi thực hiện cắt nửa tuyến giáp, và gần một nửa số bệnh nhân sẽ cần điều trị thay thế hormone tuyến giáp. Mức TSH huyết thanh trước phẫu thuật cao và khối u tuyến giáp đơn phương là những yếu tố dự đoán độc lập cho việc điều trị thay thế hormone tuyến giáp sau cắt nửa tuyến giáp. Mô hình dự đoán có thể là một công cụ hữu ích cho thực hành lâm sàng.
#suy giáp #điều trị thay thế hormone #cắt nửa tuyến giáp #mô hình dự đoán #hormone tuyến giáp
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2